Xuất xứ nhạc phẩm : " Đồi thông hai mộ "
Nếu
như những bài hát trong “Truyện ca” được khơi nguồn cảm hứng từ những điển
tích, cổ tích, tiểu thuyết… thì ca khúc Đồi thông hai mộ được cảm tác từ một
chuyện tình ngang trái có thật.
Đồi
thông hai mộ là một điểm du lịch nổi tiếng ở Đà Lạt, nằm cách trung tâm thành
phố khoảng 6 km về phía Đông, thắng cảnh đồi thông hai mộ nằm trên đồi cao giữa
rừng thông bạt ngàn, không gian hoang vắng và tĩnh mịch.
Có
một bảng tóm tắt câu chuyện tình Đồi thông hai mộ được gắn trên một cây thông,
nội dung tóm tắt giống như những ghi chép trong cuốn sách “Đà Lạt, danh thắng
và huyền thoại” của tác giả Trần Huy Hùng Cường.
Theo
đó, vào năm 1956, cậu sinh viên Vũ Minh Tâm (quê Vĩnh Long) học tại trường Võ
Bị Quốc Gia Đà Lạt (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt). Anh đem lòng yêu thương
một thiếu nữ người địa phương, tên là Lê Thị Thảo, giáo viên dạy Văn trường Bùi
Thị Xuân. Tâm và Thảo đã ước hẹn nên duyên vợ chồng, chờ ngày anh ra trường sẽ
làm lễ cưới.
Thế
nhưng vì hoàn cảnh của Thảo khá khó khăn, cô vốn là trẻ mồ côi được các Sơ nhà
thờ nuôi dạy từ nhỏ, còn Tâm lại là con trai độc nhất của một gia đình điền chủ
giàu có ở Vĩnh Long. Chính vì sự chênh lệch về giai cấp, nên khi gia đình Tâm
biết được chuyện của hai người liền ra sức ngăn cấm.
Gia
đình Tâm bắt anh phải về quê cưới một người con gái giàu sang mà họ đã chọn
sẵn. Vì muốn tròn chữ hiếu, Tâm đành phải cưới một người mình không hề yêu
thương. Khi biết tin anh Tâm về quê cưới vợ, Thảo quá đau khổ và tuyệt vọng.
Một buổi chiều tháng 3/1956, cô đã gieo mình xuống hồ Than Thở. Trước khi tự tử
Thảo đã để lại một bức thư xin được chôn ở đồi thông bên cạnh hồ Than Thở – nơi
ngày xưa hai người từng hẹn hò.
Khi
Tâm quay trở lại Đà Lạt thì hay tin người mình yêu đã chết. Chàng đã rất đau
khổ và hối hận. Khi mãn khóa, Tâm được điều về một đơn vị tác chiến và chỉ vài
tháng sau đó, trong một trận giao tranh Tâm bị thương rất nặng không thể cứu
chữa được. Trước khi mất anh nhờ bạn bè đưa thi thể về Đà Lạt chôn cạnh mộ của
Thảo.
Tấm bia mộ của Tâm viết những dòng thơ trích trong cuốn nhật ký của anh:
“Nước
biếc non xanh dù biến đổi
Mối tình chung thủy Thảo trong Tâm
Chiều chưa xuống mà nắng vàng vội tắt
Đêm chưa về mà cỏ đã đầm sương
Cả núi rừng ngấn lệ tiếc thương
Cho mối tình ngang trái của đôi uyên
ương không thành…”.
Sau
năm 1975, gia đình Tâm đã bốc mộ, đem di cốt của anh về Vĩnh Long chôn cất, Tuy
nhiên, cư dân Đà Lạt vẫn làm một ngôi mộ gió ghi tên Vũ Minh Tâm nằm cạnh mộ Lê
Thị Thảo như cũ.
Năm 1997, UBND thành phố Đà Lạt cấp phép cho Công ty TNHH Thùy Dương cải tạo lại khu vực hồ Than Thở và đồi thông hai mộ để khai thác du lịch. Công ty này đã tiến hành sửa sang lại ngôi mộ cho cô giáo Lê Thị Thảo, đồng thời xây một ngôi mộ gió kế bên đề tên Vũ Minh Tâm để hoàn thành di nguyện cuối cùng của hai người.
Người Đà Lạt cho rằng sau khi xảy ra câu chuyện bi thương của Thảo và Tâm thì hồ được đổi tên thành hồ Than Thở. Tuy nhiên, nhiều tư liệu cho biết, trước đây hồ có tên tiếng Pháp là là Lac Des Soupirs (soupirs nghĩa là thở dài). Vào năm 1956 (trùng với năm mất của Thảo) ông Nguyễn Vĩ, Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ, đề nghị đổi từ tên Pháp ra tên Việt thành hồ Than Thở.
.Năm 1965, nhạc sĩ Hồng Vân khi đến thăm mộ của Thảo và Tâm, ông đã tức cảnh sinh tình viết nên ca khúc nổi tiếng Đồi thông hai mộ”. Ở cuối bản thảo của ca khúc nhạc sĩ viết: “Em ơi dưới lòng đất lạnh… Chỉ hai đứa mình để dệt lại chuyện xưa”.
Về
nhạc sĩ Hồng Vân, có rất ít tư liệu về ông, chỉ biết rằng ông tên thật là Trần
Công Quý. Không rõ thân thế cũng như năm sinh và năm mất của ông. Bút danh Hồng
Vân là tên thật người vợ của ông. Nhiều bài hát của ông được ký tên Hồng Vân –
Trần Quý hoặc Trần Quý.
Ngoài
ra ông còn dùng một bút danh khác là Dạ Lan Thanh. Ông viết khá nhiều, cộng
chung các bài hát được viết dưới cả 3 bút danh thì ông có khoảng 80 bài. Riêng
về Đà Lạt ông có những ca khúc: Chuyện hồ Than Thở, Đồi thông hai mộ, Tiếng
vọng đồi thông (tức Đồi thông hai mộ 2), Trăng sáng đồi thông, Vĩnh biệt đồi
thông… Nhìn chung, nhạc của Hồng Vân sử dụng cung giai thứ nhiều, ca từ mộc mạc
nên thích hợp với tầng lớp bình dân lúc đó.
Năm
1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam và sinh sống tại Đà Lạt. Khoảng thập niên
1960, ông vào Sài Gòn lập nghiệp bằng nghề viết nhạc. Ngoài viết nhạc, ông còn
mở thêm lớp nhạc Hồng Vân tại Chợ Quán do ông trực tiếp dạy nhạc lý và Trung
Chỉnh luyện hát.
Một
số ca sĩ nổi tiếng từ lớp nhạc này gồm có Thủy Tiên, Thanh Hương, Tuyết Linh…
Ngoài ra, ông còn làm Trưởng ban Nhạc thời trang Đài truyền hình Sài Gòn, ban
nhạc Hồng Hà, và điều khiển nghệ thuật của hãng đĩa Continental.
Ông
có người vợ cũng viết nhạc là Như Phy – tác giả một số bài như Hai đứa nghèo,
Người mang tâm sự, Đường tình…
Sau 1975, không còn ai biết tung tích Hồng Vân và gia đình ở đâu.
Kim Liên B Nguyễn ( sưu tầm )
- theo bài viết của TBKTSG trong Nhạc Xưa Thời Báo.
- https://vi.wikipedia.org/wiki
No Comment
Chào bạn, nếu có bất cứ thắc mắc nào, hãy để lại ý kiến, nhận xét của bạn đều rất quan trọng. Liên rất vui nếu bạn viết có dấu ...