Từ "mesopotamia" được hình thành từ các từ cổ "meso", có nghĩa là ở giữa hoặc ở giữa, và "potamos," có nghĩa là sông. Nằm trong các thung lũng màu mỡ giữa sông Tigris và sông Euphrates, khu vực này hiện là quê hương của Iraq, Kuwait, Thổ Nhĩ Kỳ và Syria ngày nay .
Văn minh Lưỡng Hà:
Con người lần đầu tiên định cư ở Lưỡng Hà vào thời đại đồ đá cũ. Đến năm 14.000 trước Công nguyên, người dân trong vùng sống trong các khu định cư nhỏ với những ngôi nhà hình tròn.
Năm nghìn năm sau, những ngôi nhà này đã hình thành các cộng đồng nông dân sau quá trình thuần hóa động vật và phát triển nông nghiệp, đặc biệt nhất là các kỹ thuật thủy lợi tận dụng lợi thế gần các sông Tigris và Euphrates.
Đến năm 3000 trước Công nguyên, vùng Lưỡng Hà nằm vững chắc dưới sự kiểm soát của người Sumer. Sumer bao gồm một số thành phố phi tập trung - Eridu, Nippur, Lagash, Uruk, Kish và Ur.
Vị vua đầu tiên của một Sumer thống nhất được ghi lại là Etana của Kish. Không rõ liệu Etana có thực sự tồn tại hay không, vì ông và nhiều nhà cai trị được liệt kê trong Danh sách Vua Sumer được phát triển vào khoảng năm 2100 trước Công nguyên đều có trong thần thoại Sumer.
Theo sau Etana là Meskiaggasher, vua của thành bang Uruk. Một chiến binh tên là Lugalbanda nắm quyền kiểm soát vào khoảng năm 2750 trước Công nguyên
Uruk là thành phố đầu tiên trong số những thành phố này, có từ khoảng năm 3200 trước Công nguyên. Đây là một đô thị bằng gạch bùn được xây dựng dựa trên sự giàu có từ thương mại và chinh phục, đồng thời có nghệ thuật công cộng, những cột và đền thờ khổng lồ. Vào thời kỳ đỉnh cao, nó có dân số khoảng 50.000 công dân.
Những người cổ đại khác làm đồ gốm bằng tay, nhưng người Sumer là những người đầu tiên phát triển bánh xe quay, một thiết bị cho phép sản xuất hàng loạt
Vật dụng để đựng bằng gốm của người Sumer |
Người Sumer đã xử dụng thông tin liên lạc bằng văn bản vào năm 2800 trước công nguyên, Họ không bắt đầu viết văn, hay ghi chép lịch sử, mà là để theo dỏi hàng hóa mà họ đã làm và bán.Lúc đầu là họ xử dụng cách vẽ cách bức tranh cơ bản là vẽ các đối tượng khác nhau trong mua bán. Cuối cùng họ bắt đầu kết hợp hệ thống các bức tranh để thể hiện ý tưởng và hành động.Rồi lâu dần các hình ảnh được tối giản phát triển thành các biểu tượng đại diện cho các từ và âm thanh ...
Bảng đất sét mô tả diển ý của người Sumer qua các nét vẽ |
Người Sumer đã tìm ra cách thu thập và khơi thông dòng chảy trản của hai con sông Tigris và Euphrates, và xử dụng lượng phù sa mà hai con sông này bồi đắp, và xử dụng chúng để tưới nước , bón phân cho các cánh đồng của họ, những kinh rạch với hệ thống phức tạp dần dần được thiết kế, những con đập bằng lau sậy, thân cọ và bùn được phát minh , có hệ thống đóng mở cửa điều khiển nguồn nước phục vụ cho việc canh nông ....
Hình khắc trên đất sét mô tả nông ngư nghiệp người Sumer |
Ngươi Sumer cũng đã sáng chế ra những dụng cụ có bánh xe để vận chuyển vào những năm 3000 trước công nguyên, nhưng không dùng nhiều cho việc sản xuất nhà nông, vì đồi núi gồ ghề, chúng hầu như chỉ được dùng trong cúng tế, hay quân đội nơi có mặt bằng tương đối dể di chuyển ..
Mô phỏng theo hình khắc về dụng cụ có bánh xe |
Người Sumer cũng đã phát minh ra được một công cụ quan trọng trong nông nghiệp đó là cái cày, họ thậm chí còn ghi ra những ghi chú quan trọng rất chi tiết việc chế tạo và xử dụng cái cày trong nông nghiệp ..
Mô phỏng theo khắc họa cái cày của người Sumer cổ |
Người Sumer cũng là những người đầu tiên thu thập len để dệt thành vải may quần áo ở quy mô công nghiệp. Người Sumer còn là những người đầu tiên hình thành cơ cấu tổ chức sản xuất hàng dệt ở quy mô lớn đại trà, ra ngoài sự sản xuất gia đình với tính cách riêng lẻ , tiền thân của các công ty sản xuất hiện đại
Bảng khắc mô tả một phụ nử Sumer đang dệt vải |
Người Sumer phát minh ra những cái khuôn đúc gạch bằng đất sét để xây tường , tuy không bền bằng những ngôi đền xây bằng đá , nhưng họ đã tạo ra những ngôi nhà nhanh chóng và hình thành những đô thị phát triển nhanh và quy mô to lớn hơn ...
Tường xây bằng gạch đất sét còn sót lại |
Người Sumer là những người đầu tiên xử dụng kim loại đồng để chế tạo các vật dụng hữu ích trong sinh hoạt, từ mũi nhọn, dùi đục và cả ...dao cạo. Và họ cũng đã phát triển nghệ thuật với những tạo tác có tầm ấn tượng sâu sắc như sự mô tả những con vật truyền thuyết như chim đại bàng với đầu sư tử ...
Nghệ thuật tượng hình trên đồng của người Sumer cổ |
Người nguyên thủy đếm bằng phương pháp đơn giản, thí dụ như khía những vạch trên cây hay trên xương.
Người Sumer đã phát triển hệ thống đếm bằng cách đánh số chính thức dựa trên đơn vị 60. Lúc đầu họ dùng lau sậy để theo dỏi các đơn vị, sau đó với sự phát triển của chử hình nêm, họ sử dụng ký hiệu dấu dọc trên đất sét để đếm đơn vị ...Hệ thống của người Sumer đã đặt nền móng cho các phép tính toán học cho những nền văn minh kết tiếp ..
Hệ thống số đếm của người Sumer |
Chữ viết đầu tiên được sử dụng dựa trên hình ảnh, xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 3500 trước Công nguyên. Đến năm 3000 trước Công nguyên, các ký tự tượng hình (trong số đó có hơn một nghìn ký tự) đã được cách điệu . Cuối cùng, khoảng 2500 năm trước Công nguyên, chữ viết đã phát triển thành chữ viết "hình nêm" -Học viết bằng chữ hình nêm là một quá trình lâu dài và nghiêm ngặt, và việc học chữ chỉ giới hạn trong một bộ phận nhỏ các linh mục và quan chức.
Bảng chử viết hình nêm của người Sumer cổ |
Một trong những đóng góp lớn của Lưỡng Hà cổ đại đối với hoạt động của chính phủ là sự phát triển của các bộ luật thành văn. Bộ luật nổi tiếng nhất trong số này là Bộ luật Hammurabi, được viết vào khoảng năm 1780 trước Công nguyên. Tuy nhiên, mã này dựa trên các mã trước đó quay trở lại các thành phố của người Sumer vào thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên.
Mật mã của Hammurabi và những người tiền nhiệm của nó được viết trên các bảng đất sét hoặc cột đá, để chúng có thể được nhìn thấy trước công chúng. Từ họ, chúng ta biết rất nhiều về hệ thống luật pháp Lưỡng Hà.
Bộ luật mật mã Hammurabi |
Vào thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, quân đội Lưỡng Hà đã áp dụng một công nghệ quân sự mới, xe ngựa kéo. Đây là một sự đổi mới được du nhập từ những người du mục trên thảo nguyên ở phía bắc. Việc làm chủ chiến tranh bằng xe ngựa đòi hỏi phải được đào tạo và thực hành đáng kể, và việc áp dụng công nghệ này hẳn đã tạo thêm động lực cho việc sử dụng những người lính đã qua đào tạo, thậm chí có thể là chuyên nghiệp.
Nhiều tiến bộ công nghệ có thể là do người Lưỡng Hà: thủy lợi, cái cày, cánh buồm, gạch đất sét, bánh xe thợ gốm, gia công kim loại (bao gồm cả áo giáp và vũ khí bằng kim loại), viết, kế toán, giũa, làm thủy tinh và đèn, dệt và nhiều thứ khác Hơn nữa, họ cũng phát triển một lượng kiến thức khoa học ấn tượng thông qua việc quan sát chặt chẽ thế giới tự nhiên. Danh sách đầy đủ về động vật, thực vật và khoáng sản đã được cung cấp cho chúng tôi, cũng như danh sách các đối tượng địa lý - sông, núi, thành phố và dân tộc. Các quy hoạch của các thành phố đã được phát hiện, bản hoàn chỉnh nhất là của Nippur, khớp với bản đồ do các nhà khảo cổ học lập. Người Lưỡng Hà cũng cho thấy sự hiểu biết thực tế về các quá trình hóa học trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như trong việc chuẩn bị các công thức và chất màu, và sản xuất thủy tinh màu.
Khoa học Lưỡng Hà đặc biệt hiệu quả trong ba lĩnh vực, toán học, thiên văn học và y học.
Toán học :
Người Lưỡng Hà đã phát triển toán học đến một trình độ tiên tiến hơn bất kỳ người dân đương thời nào, và nhờ đó đã đặt nhiều nền tảng cho toán học hiện đại.
Các nhà ghi chép Mesopotamian đã tạo ra các bảng toán học chi tiết, cũng như các văn bản đặt ra các vấn đề toán học nâng cao. Từ những điều này, chúng ta biết rằng họ đã phát triển một hệ thống số dựa trên cơ số 60, cho chúng ta giờ 60 phút, ngày 24 giờ và vòng tròn 360 độ. Lịch của người Sumer dựa trên tuần bảy ngày. Hệ thống số của họ, chỉ riêng trong thế giới cổ đại, đã có một điểm đánh dấu để biểu thị các giá trị, như trong toán học hiện đại (như trong 3.333 khi số 3 tương ứng là 3.000, 300, 30 và 3).
Họ đã phát triển các định lý về cách đo diện tích của một số hình dạng và chất rắn, và tiến gần đến phép đo chính xác chu vi của các hình tròn. Họ đã hiểu đầy đủ về căn bậc hai và căn bậc hai.
Kiến thức này không chỉ là lý thuyết. Nó đã được áp dụng để thiết kế và xây dựng các tòa nhà lớn, các cầu dẫn nước dài và các dự án kỹ thuật đầy tham vọng khác.
Tấm đất sét với những ký hiệu toán học |
Thiên văn học:
Một nhánh chính của khoa học Lưỡng Hà là thiên văn học. Các thầy tu Lưỡng Hà đã tạo ra các bảng thiên văn, và có thể dự đoán nhật thực và nhật thực. Họ đã làm ra lịch 12 tháng dựa trên các chu kỳ của mặt trăng. Kiến thức thiên văn học Lưỡng Hà sau này có ảnh hưởng lớn đến thiên văn học Hy Lạp.
Như với hầu hết các nền văn hóa tiền hiện đại, thiên văn học và chiêm tinh học gắn bó chặt chẽ với nhau: chuyển động của các thiên thể được coi là có ảnh hưởng trực tiếp đến công việc của con người. Đây là một sự kích thích mạnh mẽ cho các linh mục để tìm ra chuyển động của các hành tinh và các ngôi sao một cách chính xác nhất có thể.
Dược phẩm :
Như trong tất cả các xã hội cổ đại, y học và tôn giáo đi đôi với nhau. Bệnh tật được coi là dấu hiệu của sự không hài lòng của các vị thần đối với một người, hoặc thậm chí là biểu hiện của những linh hồn ma quỷ đang ngự trị họ. Nhiệm vụ của bác sĩ là xác định tội lỗi đã gây ra sự bất mãn đó, và kê đơn nghi lễ tôn giáo chính xác để mang lại sự chữa lành. Trừ tà thường được khuyến khích.
Tuy nhiên, rõ ràng là nhiều bác sĩ Lưỡng Hà đã kết hợp phương pháp này với một nghiên cứu thực tế hơn về cơ thể con người và các bệnh lý của nó. Nhiều máy tính bảng, ví dụ một văn bản được gọi là Sổ tay Chẩn đoán, có từ thế kỷ 11 trước Công nguyên Babylon, liệt kê các triệu chứng và tiên lượng. Những điều này cho thấy các bác sĩ Lưỡng Hà đã phát triển các kỹ thuật chẩn đoán, tiên lượng, khám sức khỏe và kê đơn hợp lý cùng với các yếu tố thần bí hơn trong thương mại của họ. Chẩn đoán và tiên lượng dựa trên các quy tắc quan sát thực nghiệm và suy luận logic (như trong y học hiện đại)
Sự kết thúc của một nền văn minh:
Một di chỉ mô tả cảnh quân đội trong chiến tranh |
Văn bản chữ hình nêm cuối cùng được tìm thấy cho đến nay - một niên giám thiên văn - được viết vào năm 75 sau Công nguyên. Một số ngôi đền cổ vẫn tiếp tục trong suốt hai thế kỷ đầu CN, và thậm chí còn được trùng tu vào cuối thời Parthia. Các linh mục của họ gần như chắc chắn vẫn tiếp tục biên niên sử và quan sát thiên văn của họ, nhưng họ ngày càng làm như vậy bằng tiếng Aramaic, chứ không phải chữ hình nêm cũ. Điều này có nghĩa là họ đã viết trên giấy da chứ không phải đất sét, vì vậy các văn bản đã không tồn tại.
Vào những năm 220 CN, người Parthia bị thay thế bởi một dòng cai trị mạnh mẽ hơn nhiều, một triều đại Ba Tư được gọi là Sasanids .
Các quốc vương Sasanid áp đặt quyền kiểm soát trực tiếp hơn đối với các thành phố ở miền nam Lưỡng Hà, và cũng tích cực thúc đẩy tôn giáo của riêng họ, Zoroastrianism. Những phát triển này đã tước đi phần lớn doanh thu của các tư tế đền thờ Lưỡng Hà.
Mức độ ảnh hưởng thực sự của họ đối với người dân giờ đây đã được phơi bày rõ ràng. Cơ đốc giáo đã truyền bá qua vùng Lưỡng Hà từ thế kỷ 1 CN, và đến thế kỷ 3 có thể đã được đa số dân chúng trung thành. Vào một thời điểm nào đó trong thế kỷ thứ 3, những ngôi đền cổ cuối cùng đã bị bỏ hoang, có lẽ quá tốn kém cho một số linh mục còn lại để duy trì. Chúng đã bị mục ruỗng, những người trông coi cổ vật của nó đã bị đánh bại bởi cuộc đấu tranh lâu dài để giữ cho quá khứ tồn tại. Nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại đã từ bỏ nhịp thở dốc cuối cùng.
Nếu nói kỷ về sự phát triển và diệt vong của một nền văn minh cổ đại , có lẽ phải là nhiều bộ sách, ở đây chỉ khái quát để có một cái nhìn tổng quát , và biết về một nền văn minh đã một thời phát triển và làm nền tảng cho những nền văn minh kế hậu về sau ....
Kim Liên B Nguyễn
Wichita, Kansas, USA
Aug/13/2022
Tham khảo :
https://en.wikipedia.org/wiki/Mesopotamia
https://www.timemaps.com/civilizations/ancient-mesopotamia/
https://www.worldhistory.org/Mesopotamia/
No Comment
Chào bạn, nếu có bất cứ thắc mắc nào, hãy để lại ý kiến, nhận xét của bạn đều rất quan trọng. Liên rất vui nếu bạn viết có dấu ...